Những bất hợp lý trong thực hành thẩm quyền sửa bản án hình sự sơ thẩm của Hội đồng xét xử phúc thẩm

Nguyên tắc thực hiện hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng nói chung và tố tụng hình sự nói riêng là một nguyên tắc tiến bộ nhằm bảo đảm tính đúng đắn của phán quyết, trong đó, việc quy định về thẩm quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm được quyền sửa bản án sơ thẩm là một nội dung quan trọng, nhờ có quy định này mà Tòa án cấp phúc thẩm có thể khắc phục những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước.Thực hiện quyền này, Hội đồng xét xử (HĐXX) phúc thẩm có thể sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng có lợi hoặc bất lợi cho bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tiển giải quyết vụ án, việc thực hiện, vận dụng, áp dụng Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (gọi tắt là BLTTHS 2015), tác giả nhận thấy hiện cũng còn những bất cập, vướng mắc sau đây:

Vấn đề thứ nhấtvới quy định cho phép Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự có quyền giảm mức bồi thường thiệt hại mà không phụ thuộc vào việc kháng cáo, kháng nghị về bồi thường thiệt hại.

BLTTHS 2015 có quy định (1)

Khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau: 

  1. a) Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp; 
  2. b) Áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn; 
  3. c) Giảm hình phạt cho bị cáo; 
  4. d) Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng;

đ) Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; 

  1. e) Giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo. 

Trường hợp có căn cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều này cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.

Theo quy định nêu trên thì việc HĐXX phúc thẩm giảm mức bồi thường thiệt hại mà không phụ thuộc vào việc có kháng cáo, kháng nghị về bồi thường thiệt hại hay không? Cụ thể, khoản 3 Điều 357 BLTTHS 2015 quy định HĐXX phúc thẩm vẫn có thể giảm mức bồi thường thiệt hại cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.Đây là quy định mới khác biệt của BLTTHS 2015 so với quy định cũ là BLTTHS 2003 vì theo quy định của BTTHS 2003 (2) thì việc giảm mức bồi thường thiệt hại bị ràng buộc bởi việc có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án liên quan đến trách nhiệm dân sự hay không?.

Nếu có căn cứ, HĐXX phúc thẩm chỉ có thể giảm mức bồi thường với điều kiện kháng cáo, kháng nghị liên quan phần bồi thường thiệt hại.Ngay cả khi có kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng mức bồi thường thì vẫn có thể giảm mức bồi thường. Quy định này cũng xuất phát từ việc thực hiện quyền tự định đoạt, sự tự nguyện, tự thỏa thuận trong việc bồi thường dân sự. Như vậy theo BLTTHS 2003 thì nếu không có kháng cáo, kháng nghị liên quan đến bồi thường thiệt hại thì HĐXX phúc thẩm không được quyền xem xét vấn đề này, nhưng BLTTHS 2015 lại ghi nhận và trao cho HĐXX phúc thẩm quyền này mà không phụ thuộc vào việc kháng cáo, kháng nghị?

Theo ý kiến của tác giả, xét về quan điểm khoa học pháp lý dân sự, quy định mới này là không hợp lý, bởi lẽ các nguyên tắc cơ bản trong pháp luật dân sự đó là nguyên tắc tự do ý chí, tự nguyện cam kết và tự thỏa thuận. Phần trách nhiệm bồi thường thiệt hại thực chất là trách nhiệm dân sự, trách nhiệm vật chất, hay nói cách khác là phần trách nhiệm dân sự độc lập trong vụ án hình sự. Vì lẽ ấy, khi bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại (trách nhiệm dân sự, trách nhiệm vật chất) thì hiển nhiên, chúng ta xem như giữa bị cáo, bị hại hoặc nguyên đơn dân sự và bị đơn dân sự (gọi là bên liên quan trách nhiệm dân sự) đã thống nhất ý chí với phán quyết về phần bồi thường thiệt hại này trong bản án sơ thẩm trước đó. Và khi các bên liên quan trách nhiệm dân sự đã cùng thống nhất ý chí thì việc HĐXX phúc thẩm tự ý xét giảm mức bồi thường thiệt hại là đã can thiệp thô bạo và vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự đó là nguyên tắc tự do ý chí, tự nguyện cam kết và tự thỏa thuận và việc làm này là không cần thiết, đồng thời xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của người được bồi thường.

Theo tác giả, vẫn nên giữ nguyên tinh thần quy định cũ trước đây theo khoản 3 Điều 249 BTTHS 2003 cụ thể là nếu không có kháng cáo, kháng nghị liên quan đến bồi thường thiệt hại thì HĐXX phúc thẩm không được quyền xem xét vấn đề này và nếu có, thì HĐXX phúc thẩm chỉ phát sinh quyền sửa bản án khi và chỉ khi có kháng cáo, kháng nghị liên quan đến bồi thường thiệt hại.

Vấn đề thứ hai, cũng theo quy định của BLTTHS 2015 (3) trao quyền cho HĐXX phúc thẩm chỉ có quyền xem xét và tăng mức bồi thường thiệt hại trên cơ sở kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của bị hại mà không đề cập đến cơ sở kháng cáo của đại diện bị hại, nguyên đơn dân sự.

Như chúng ta đã biết, tính chất của xét xử phúc thẩm là để HĐXX phúc thẩm kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án sơ thẩm và khắc phục những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm và vì lẽ ấy mà tại khoản 2 Điều 357 BLTTHS 2015 có quy định: “Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể: Tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; áp dụng hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp tư pháp; Tăng mức bồi thường thiệt hại; Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn; Không cho bị cáo hưởng án treo.”

Theo quy định này, thì cơ sở để HĐXX phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng bất lợi cho bị cáo dựa trên kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của bị hại, ngoài chủ thể này ra thì kháng cáo của các chủ thể khác không phải là cơ sở để HĐXX phúc thẩm sửa bản án theo hướng bất lợi cho bị cáo. Theo đó nếu người đại diện của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn dân sự trong phạm vi kháng cáo của mình có kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo hướng không có lợi cho bị cáo thì không có căn cứ được chấp nhận.

Trong thực tiển xét xử án hình sự, không phải lúc nào bị hại cũng có khả năng tự mình kháng cáo (trừ trường hợp bị hại là người dưới 18 tuổi, có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, bị hại đã chết…), khi đó quyền kháng cáo của họ phải được thực hiện thông qua người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật. Mặt khác, Điều 331 BLTTHS 2015 có quy định đầy đủ về người có quyền kháng cáo đó là: “Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm…” Như vậy xét về việc cho phép thực hiện quyền của chủ thể có quyền kháng cáo thì quy định tại khoản 2 Điều 357 của BLTTHS 2015 là chưa đầy đủ, phiến diện và chưa đảm bảo quyền kháng cáo những người tham gia tố tụng.

Tham chiếu quy định tại khoản 2 Điều 357 BLTTHS 2015 thì việc tăng mức bồi thường thiệt hại chỉ được HĐXX phúc thẩm xem xét và quyết định cơ sở có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo bị hại. Tuy nhiên, ngoài bị hại thì người đại diện của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn dân sự cũng có quyền kháng cáo tăng mức bồi thường thiệt hại, cụ thể:

(i)- điểm m khoản 2 Điều 62 và khoản 1 Điều 331 BLTTHS 2015 quy định người đại diện của bị hại có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm;

(ii)- điểm l khoản 2 Điều 63, khoản 3 Điều 331 BLTTHS 2015 quy định nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến bồi thường thiệt hại;

(iii)- điểm h khoản 2 Điều 84 BLTTHS 2015 quy định người bảo vệ và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi của người mà mình bảo vệ là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

Với các quy định nêu trên, người đại diện của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn dân sự cũng có quyền kháng cáo tăng mức bồi thường thiệt hại nếu họ nhận thấy phần quyết định của bản án sơ thẩm về vấn đề bồi thường thiệt hại đối với bị hại hoặc nguyên đơn dân sự là chưa phù hợp. Như vậy, quy định tại khoản 2 Điều 357 BLTTHS 2015 là một thiếu sót về mặt nội dung, phạm vi áp dụng và cả về kỹ thuật lập pháp rát cần phải khắc phục ngay.Theo tác giả, để khắc phục nội dung này thì cần bổ sung quy định về quyền kháng cáo của các chủ thể như đã nêu tại các trường hợp (i). (ii) và (iii) trên đây trong đó có người đại diện bị hại, nguyên đơn dân sự vào khoản 2 Điều 357 BLTTHS 2015 là hợp lý và bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền kháng cáo của các chủ thể liên quan này trong vụ án mà có liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại.

ThS.LS Nguyễn Hoài Bảo                                     

(*) Bài viết thể hiện quan điểm nghiên cứu, phân tích của cá nhân tác giả, không đại diện cho Khoa Luật.

Chú thích

  • Khoản 1 và khoản 3 Điều 357 BLTTHS 2015;
  • Khoản 3 Điều 249 BTTHS 2003;
  • khoản2 Điều 357 BLTTHS 2015.

 

                                                                      

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *