Những tồn tại bất cập của chế định “người bào chữa chỉ định” và kiến nghị hoàn thiện

Có thể nói, nếu so sánh với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (gọi tắt là BLTTHS 2003) trước đây thì Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (gọi tắt là BLTTHS 2015) đã có những quy định về “Chỉ định người bào chữa” theo hướng phù hợp hơn nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, vướng mắc, gây không ít khó khăn trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự thuộc trường hợp bào chữa bắt buộc, mà thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập. Điều đó, dẫn đến người bị buộc tội không được bảo đảm trọn vẹn quyền bào chữa, người bào chữa không thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ cũng như vai trò và địa vị pháp lý tham gia tố tụng của mình.

1. Quy định của BLTTHS 2015 về chỉ định người bào chữa

Điều 76 BLTTHS 2015 quy định:

 “1. Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ: a) Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; b) Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.

 2.Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu hoặc đề nghị các tổ chức sau đây cử người bào chữa cho các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này: a) Đoàn luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử người bào chữa; b) Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý, luật sư bào chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý; c) Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cử bào chữa viên nhân dân bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình”.

Như vậy, về phạm vi, so với BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 đã mở rộng thêm trường hợp được bào chữa bắt buộc không chỉ riêng đối với những người bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội theo khung hình phạt cao nhất là tử hình mà còn đối với những người về tội mà Bộ luật hình sự năm 2015 (gọi tắt là “BLHS năm 2015”) quy định mức cao nhất khung hình phạt là 20 năm, tù chung thân; quy định thêm điều kiện người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa.

Quy định về chỉ định người bào chữa cho người dưới 18 tuổi trong các vụ án hình sự

Ảnh: Nguồn Internet.

Và về chủ thể thực hiện, Điều 76 BLTTHS 2015 đã mở rộng thêm diện người bào chữa gồm cả trợ giúp viên pháp lý để bào chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý, đây là quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi để bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp người bị buộc tội mà còn phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tiễn hiện nay khi đa phần trợ giúp pháp lý đều không có thẻ luật sư nên khó khăn trong việc tiếp cận và bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội.

2. Những tồn tại bất cập, hạn chế trong việc thực hiện chế định chỉ định người bào chữa chỉ định

2.1. Đối với những người được chỉ định bào chữa

Theo quy định của BLTTHS 2015 (1), có quy định chủ thể được bào chữa bắt buộc là người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa, quy định của BLTTHS là như vậy nhưng trong thực tiễn áp dụng rất khó khăn khi áp dụng, vì có nhiều cách hiểu khác nhau đối với trường hợp trên và hiện tại chưa có văn bản dưới luật hướng dẫn áp dụng.

Trên thực tế, bị can, bị cáo có nhược điểm về tâm thần thì khó khăn nhất là trường hợp những nhược điểm này không phải là nhược điểm cố hữu bẩm sinh mà nó xuất hiện trong quá trình tố tụng (điều tra, truy tố và xét xử vụ án). Vì vậy, khi cơ quan tiến hành tố tụng có nghi ngờ về tình trạng tâm thần, nhược điểm thể chất của bị can, bị cáo (người bị buộc tội) thì các cơ quan này phải trưng cầu giám định. Vì vậy, pháp luật cần phải quy định thời điểm ra quyết định trưng cầu giám định tâm thần là thời điểm các cơ quan này có nghĩa vụ thực hiện và đảm bảo chế định người bào chữa tức là quyền được bào chữa cho bị can, bị cáo chứ không phải chờ đến khi có kết luận giám định. Vì nếu phải chờ có kết luận giám định là bị can, bị cáo có nhược điểm về tâm thần thì sẽ đảm bảo được quyền bào chữa cho họ ngay từ đầu. Còn kết luận giám định không có nhược điểm về tâm thần thì lúc này sự tham gia tiếp theo của người bào chữa trong vụ án sẽ được giải quyết như trường hợp thông thường khác, tức là trên cơ sở thỏa thuận giữa bị can, bị cáo và người thân nhân cũa họ với người bào chữa.

2.2. Chưa thể chế hóa quy định cho phép người bào chữa chỉ định được gặp gỡ bị cáo sau phiên tòa sơ thẩm

Tuy BLTTHS 2015 quy định:“Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng, trừ các trường hợp: Người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa; Người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa” (2) và quy định người bào chữa có quyền: “Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này” (3). Với những quy định như trên nhưng thiếu văn bản hướng dẫn thì hiện nay trong thực tế, việc người bào chữa gặp bị cáo sau phiên tòa sơ thẩm để thống nhất, trao đổi thực hiện một số công việc như kháng cáo, các hoạt động khác nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của bị cáo sẽ khó khăn và không thể thực hiện được trên thực tế.

2.3. Chưa có chế tài xử lý những người tiến hành tố tụng cản trở việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo (người bị buộc tội), quyền hành nghề luật sư

Nếu nghiên cứu tổng thể BLTTHS 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành thì chúng ta có thể thấy hiện chưa có chế định nào xử lý những hành vi cản trở hoạt động hành nghề của người bào chữa như: Chậm tiếp nhận thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa; trì hoãn việc cấp giấy chứng nhận bào chữa thoe thời hạn luật định; tìm nhiều lý do cản trở việc gặp gỡ, tiếp xúc trao đổi giữa người bào chữa với bị can, bị cáo . . . . . . Trên thực tế, chúng ta cũng chưa thấy có vụ án mà người tiến hành tố tụng bị xử lý nghiêm, công khai về hành vi này, cùng lắm chỉ là nhắc nhở, rút kinh nghiệm nội bộ. Vì vậy, cần phải có chế tài xử lý nghiêm vi phạm của người tiến hành tố tụng.

2.4. Cần xem xét xác định lại về bản chất tên gọi của chế định này theo Điều 76 BLTTHS 2015

BLTTHS 2015 dùng cụm từ “Chỉ định người bào chữa”, theo quan điểm của tác giả thì việc sử dụng cụm từ trên là chưa phù hợp và chưa đúng bản chất của chế định này, bởi lẽ “Chỉ định” là một khái niệm (thuật ngữ) có phần hạn chế trong việc cần có và phải đảm bảo cho sự tồn tại của một khía cạnh pháp lý đối với quá trình tố tụng hình sự, mà lại dễ gây cho người khác có nhận thức về việc lựa chọn một chủ thể cụ thể nào đó. Hơn nữa, “Chỉ định” thường được gắn với việc xác định kiểu người bào chữa tham gia tố tụng là Luật sư chỉ định và các chủ thể tham gia tố tụng hình sự, ít khi sử dụng cụm từ “chỉ định luật sư” mà thường sử dụng cụm từ “nhờ luật sư”, “thuê luật sư”, “cử luật sư” hoặc “giới thiệu luật sư”. Điều này sẽ giúp làm hạn chế tâm lý mặc cảm đối với người bào chữa khi cảm thấy bị chỉ định thay vì được thực hiện quyền được chọn, được thuê, cử hay được yêu cầu thì sẽ đúng với thực chất của mối quan hệ giữa cơ quan trưng cầu và tổ chức hành nghề luật sư trong quá trình tố tụng.

Theo tác giả, có thể thay bằng cụm từ “Chỉ định người bào chữa” bằng cụm từ “Bào chữa bắt buộc”, thì sẽ phản ánh tính chất không thể thiếu của một yếu tố đối với quá trình tố tụng nhiều hơn so với một cá nhân chủ thể, nên sử dụng cụm từ này sẽ phù hợp hơn và đúng bản chất của vấn đề.

3. Kiến nghị hướng hoàn thiện các bất cập

Để giải quyết những vấn đề tồn tại bất cập như đã phân tích nêu trên, tác giả thiết nghĩa các cơ quan có thẩm quyền xây dựng, ban hành pháp luật cần rà soát lại toàn bộ các quy định về “Chỉ định người bào chữa”, qua đó có những chỉnh sửa, bổ sung đối với BLTTHS hiện hành; ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể đối với các vấn đề liên quan theo hướng sau:

Thứ nhất, cần ban hành văn bản quy định hướng dẫn cụ thể về vấn đề bị can, bị cáo (người bị buộc tội) có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa theo hướng sau: “Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất nhất định và những nhược điểm này làm cản trở người bị buộc tội tự mình thực hiện quyền bào chữa” vì đối với người bị buộc tội có nhược điểm về tâm thần, mà nhược điểm về tâm thần xuất hiện trong quá trình điều tra, xét xử vụ án, thì khi cơ quan tiến hành tố tụng có nghi ngờ về tình trạng tâm thần của người bị buộc tội thì các cơ quan này phải trưng cầu giám định.

Thứ hai, nê chăng và rất cần thiết ban hành văn bản quy định người bào chữa được quyền gặp bị can, bị cáo (người bị buộc tội) là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất sau phiên tòa sơ thẩm trong trường hợp người đó tiếp tục bị tạm giam để hỗ trợ, tư vấn và nhắm mục đích thực hiện tốt hơn quyền kháng cáo của .

Thứ ba, phải nhanh chóng và thật sự cần thiết xây dựng ban hành thực hiện các chế tài áp dụng đối với những người tiến hành tố tụng có hành vi cản trở quyền bào chữa của bị can, bị cáo (người bị buộc tội, quyền hành nghề của luật sư) vì trên thực tế BLTTHS 2015 và các văn bản hướng dẫn vẫn chưa có bất cứ chế tài gì xử lý những hành vi cản trở hoạt động hành nghề của luật sư.

Thứ tư, về tên gọi của Điều 76 BLTTHS 2015, nên thay cụm từ “Chỉ định người bào chữa” bằng cụm từ “Bào chữa bắt buộc” để phản ánh đúng hơn bản chất, tính chất của quy định về chế định này trong luật.

Kết luận, việc chỉnh sửa, bổ sung các quy định của BLTTHS hiện hành và ban hành các văn bản hướng dẫn đối với “Chỉ định người bào chữa” là thực chất đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân… Bào chữa bắt buộc góp phần vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm quá trình điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

ThS.LS. Nguyễn Hoài Bảo

(Giảng viên Khoa Luật – Trường ĐH Văn Lang)

Biên tập: ThS. Cao Ngọc Sơn

Chú thích

(1) điểm b khoản 1 Điều 76 BLTTHS 2015;

(2) khoản 6 Điều 78 BLTTHS 2015;

(3) điểm o khoản 1 Điều 73 BLTTHS 2015;

(*) Bài viết thể hiện quan điểm nghiên cứu, phân tích của cá nhân tác giả, không đại diện cho Khoa Luật.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *